Danh tướng Trần Nguyên Hãn là một khai quốc công thần của triều Hậu Lê, đã theo phò Lê Lợi trong những thời điểm khó khăn gian khổ nhất, cùng nhau “nằm gai nếm mật” trước khi đánh đuổi thành công giặc Minh đô hộ để đưa vua Lê Thái Tổ nắm được vương quyền.
Dù được phong thành Tả tướng quốc, nhưng sau một thời gian ngắn phụng sự trong triều đình nhà Lê, Trần Nguyên Hãn bắt đầu nhận thấy sự rạn nứt hình thành ngay trong nội bộ cung đình, trong đó có cả các mối quan hệ vua-tôi. Ông đã phát hiện sự nghi ngại sâu kín của nhà vua đối với những vị tướng tài có công lớn nhưng không thuộc dòng tộc nhà Lê. Trần Nguyên Hãn từng chia sẻ với người tâm phúc: “Nhà vua có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, cho nên ta không thể yên hưởng vui sướng được”. (Câu Tiễn có tướng cổ dài, mép quạ, tức là tướng chim).
Ông cũng nhận thấy ngay trong triều đình bắt đầu xuất hiện những tranh chấp vương quyền, sự mưu hại lẫn nhau giữa các thế lực phong kiến, vì vậy đã quyết định xin cáo quan để về quê ở Sơn Đông, Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Theo sách Đại Việt thông sử: Đầu năm Kỷ Dậu 1429, Trần Nguyên Hãn xin về hưu. Vua chuẩn y cho Nguyên Hãn được về nhưng dặn rằng cứ một năm hai lần phải vào triều chầu vua.
Sau khi trở về quê hương, ông cho dựng lại ngôi nhà trên nền đất cũ đã bị hư hỏng, xuống cấp do không có người trông nom, chăm sóc trong suốt thời gian đi đánh giặc cứu nước. Xây dựng phủ thờ tổ tiên, cha mẹ, đóng thêm chiếc thuyền đánh cá và phục vụ cho việc đi lại. Những việc làm chính đáng này của Trần Nguyên Hãn đã không lọt qua mắt bọn gian thần (gồm Trịnh Hoành Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư…) vốn có tư thù, đố kỵ, ganh ghét từ lâu, nhân cơ hội này đã câu kết với nhau dâng mật tấu lên vua, đặt điều vu cáo rằng Trần Nguyên Hãn xây phủ đệ lớn, đóng thuyền to, tuyển tráng binh, chở binh khí, luyện tập thủy binh để làm phản.
Nhà vua tin lời kết tội Trần Nguyên Hãn lộng hành và có âm mưu phản nghịch. Ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (tức ngày 30-3-1429), Vua Lê Thái Tổ nghe theo lời xiểm nịnh của bọn gian thần bèn sai 42 lực sĩ xá nhân đi bắt Trần Nguyên Hãn về triều hỏi tội.
Trên đường về kinh thành, khi thuyền đến bến Đông Hồ trên dòng sông Lô, ông ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Tôi với Hoàng Thượng cùng mưu cứu nước, cứu dân, nay sự nghiệp lớn đã thành, Hoàng Thượng nghe lời gièm của kẻ xấu mà hại tôi. Hoàng thiên có biết xin soi xét cho” rồi trầm mình xuống sông. Sách Đại Việt thông sử mô tả rằng, sau lời than của ông, bỗng gió to nổi lên làm lật thuyền khiến ông và 42 lực sĩ đều chết. Chỉ có 2 gia đồng sống sót.
Sau khi Trần Nguyên Hãn mất, nhà vua cho bắt vợ con ông về kinh quản thúc, gia sản của Trần Nguyên Hãn bị tịch thu. Mãi đến năm 1455, nhận thấy ông bị oan trái, vua Lê Nhân Tông (1443-1459) mới ra lệnh phục chức cho Trần Nguyên Hãn, truy phong là “Phúc thần”, cho gọi con cháu ra làm quan nhưng không có ai ra. Đời nhà Mạc, ông được truy phong là “Tả tướng quốc, Trung liệt đại vương”. Đây cũng là trường hợp rất hiếm hoi đối với các công thần khai quốc nhà Lê như Trần Nguyên Hãn nhưng lại được nhà Mạc (vốn thù địch với nhà Lê) tưởng nhớ và truy phong. Đời nhà Nguyễn, năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), triều đình ban sắc phong cho ông là “Tuấn hương, lương trực Tả tướng quốc Trần phủ quân chi thần”
Đến nay, có nhiều ý kiến phân tích về nguyên nhân dẫn tới cái chết của Trần Nguyên Hãn. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử thì cái chết của Trần Nguyên Hãn có thể do nhiều nguyên nhân sâu xa. Trong đó, nguyên nhân thứ nhất được bắt nguồn từ những tranh giành quyền lực trong triều đình nhà Lê thời hậu chiến (Có ý kiến phỏng đoán rằng Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo ủng hộ Lê Tư Tề, con trưởng của Lê Lợi lên ngôi, trong khi Lê Sát, Lê Ngân, Phạm Vấn… ủng hộ người con thứ là Nguyên Long. Khi phái Lê Sát thắng thế và Lê Tư Tề bị ruồng bỏ, thì ông cũng không tránh khỏi hậu họa). Nguyên nhân thứ hai là trong lòng Lê Lợi vẫn có mối nghi ngại đối với triều đại cũ, mà Trần Nguyên Hãn lại xuất thân là dòng dõi quý tộc nhà Trần. Chính điều này, cộng với sự tâu bẩm, gièm pha của những kẻ nịnh thần đã khiến Lê Thái Tổ trong giây phút nóng vội đã bức tử một bậc khai quốc công thần.
Theo Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, vua Thái Tổ tuổi già, lắm bệnh, sợ ngày sau chúa nhỏ (Thái tử Nguyên Long mới lên 8) cầm quyền, các đại thần như Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo “sẽ có chí khác”. Vì vậy, bề ngoài Lê Lợi “tỏ ra trọng vọng nhưng bên trong vẫn nghi ngờ. Bọn gian thần Trình Hoành Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư đón biết ý vua tranh nhau dâng mật sớ khuyên vua sớm trừ đi”.
Có tài liệu cho rằng, sau khi Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo bị trừ bỏ, vua Lê Thái Tổ tỏ ra hối hận, thương hai người bị oan, hạ lệnh cho những kẻ tố cáo ông về sau không được tố cáo ai nữa và dù có tài cũng không được dùng nữa.
Ai chịu trách nhiệm cho việc Trần Nguyên Hãn bị bức tử
Đã gần 600 năm trôi qua, câu hỏi này vẫn còn đang bỏ ngỏ. Một số người đã đưa ra quan điểm, nhận định, phân tích theo hướng bênh vực nhà vua. Nhưng bên cạnh đó thì nhiều nhà nghiên cứu vẫn tỏ ra nghi ngờ về cái chết oan khuất của Trần Nguyên Hãn và không tin ông là “kẻ phản nghịch”. Bởi lẽ ông cáo quan về quê chưa đầy 3 tháng trước khi bị vu cáo, trong khoảng thời gian ngắn ngủi này làm sao có thể “xây nhiều biệt đô, biệt cung, đóng nhiều thuyền bè chuyên chở vũ khí, tập hợp tráng binh và tậu trâu, tậu voi từng đàn đi lại rầm rập…” như lời của bọn gian thần. Mặc dù vậy vua vẫn tin rồi sai người đi bắt Trần Nguyên Hãn. Cũng có thể vua chỉ là “thuận nước đẩy thuyền”. Thời phong kiến, các vị quân chủ thường thấy ai có khả năng uy hiếp đến sự bền vững của vương triều là tìm cách loại trừ ngay theo kiểu “diệt nhầm còn hơn bỏ sót”.
Sử làng Sơn Đông có ghi lại rằng: Gia nhân và lính hầu của nhà ông Hãn đông, nhiều người giỏi võ nghệ, họ rất tức tối và khuyên ông chống lại lệnh vua. Nhưng ông nói rằng “…việc lớn đã thành, nay vua muốn trừ ta… Ta không thể sống được với nhà vua, nhưng nếu ta ra mặt chống lại, nhà vua sẽ viện cớ đó tàn sát, hại hết con cháu họ Trần. Nay chỉ để mình ta và gia quyến chịu chết là hơn”…
Có thể thấy rằng lệnh bắt của vua đã khiến cho Trần Nguyên Hãn vừa cảm thấy bị xúc phạm tới danh dự, vừa phẫn uất và xấu hổ mà không biết kêu ai dẫn đến hành động trầm mình tự vẫn, lấy cái chết để bày tỏ tấm lòng trung quân của mình.
Tại cuộc hội thảo khoa học về Thân thế, sự nghiệp Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn do UBND tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Vĩnh Phúc) tổ chức năm 1988, Giáo sư sử học Văn Tạo đã kết luận: “Ông Hãn chết tại Lập Thạch, cái chết không bình thường, không phải vì bức tử mà vì không thể sống được với bọn gian thần, với công lao và vị trí của ông, trước sự bối rối của Lê Lợi, sau khi đã chiến thắng giặc Minh nhưng thế lực chưa đủ mạnh để giữ ngôi Hoàng đế của mình”.
Trong cuốn Việt Nam Sử Lược, học giả Trần Trọng Kim có phần đánh giá về sự kiện “trảm công thần” thời vua Lê Thái Tổ như sau:
“Vua Thái Tổ vẫn là một ông vua anh tài, đánh đuổi giặc Minh, mà lại sửa sang được nhiều công việc ích lợi cho nước, nhưng khi ngài lên làm vua rồi, có tính hay nghi ngờ, chém giết những người công thần như ông Trần Nguyên Hãn và ông Phạm Văn Xảo. Hai ông ấy giúp ngài đã có công to, về sau chỉ vì sự gièm pha mà đều phải chết oan cả.
Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ công danh, mà đem tấm lòng son sắt đi phù tá quân vương trong lúc nguy nan, mong được chút hiển vinh để cho thỏa cái chí trượng phu ở đời. Ngờ đâu: chim bay đã hết, cung tốt cất đi, thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi, thì không những là một thân mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ hàng thường cũng phải vạ lây. Thế mới biết chỉ có ông Trương Tử Phòng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả!